Karaoke - lịch sử hào hùng
KARAOKE – LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

I.KARAOKE – LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN:

karaoke và lịch sử ra đời của thương hiệu âm thanh

Karaoke được ghép từ kara nghĩa là “không” và ōkesutora có nghĩa là “dàn nhạc”, có gốc từ tiếng Anh orchestra. Tại Nhật Bản, việc phục vụ nhu cầu ca hát trong các bữa tiệc được xem như truyền thống. Daisuke Inoue là nhạc sĩ sinh sống tại Kobe, ông thường được khách yêu cầu ghi âm bản nhạc của mình để họ có thể hát theo.

Nhận thấy đây, là khoảng trống trên thị trường, năm 1971 Daisuke Inoue tạo ra máy ghi âm và phát lại các bản nhạc để người dùng hát theo. Và tất nhiên để máy phát nhạc, người dùng phải chi tiền, bởi đó là tiền đề tạo nên tên “karaoke”. Tuy nhiên, Daisuke Inoue thừa nhận ông không phải là người đặt tên. Ở Việt Nam, đôi khi hay đùa rằng karaoke là đã “kara” là phải “oke”, điều này hoàn toàn sai nhưng nó vẫn tạo nên sự tích cực.

1.Sự phát triển của karaoke:

Thời điểm ban đầu, thị trường không quan tâm nhiều đến hình thức giải trí này. Thế nhưng, khi người dùng hiểu thiết bị, tiếp theo là sự ra đời các “hộp karaoke” được cách âm. Mục đích, mang đến sự tự do, không làm phiền người xung quanh.

Người Nhật có thói quen không phán xét khi người khác hát, lý do thuyết phục nhất giải thích sự thành công là sự “tự do”. Vừa thoải mái thể hiện phong cách và giọng hát riêng, đây là lý do về sự ra đời dữ liệu nhạc Midi. Việc mô phỏng nhạc cụ thông qua sound bank tích hợp thiết bị phát Midi.

Đồng hành sự cảm thụ âm nhạc, khả năng mô phỏng nhạc cụ Midi có nhiều thay đổi. Thông qua khả năng lấy mẫu nhạc cụ chi tiết, dung lượng sound bank không ngừng mở rộng. Thế nhưng, khả năng phát Midi phải nhường chổ cho sự tiếp nối dữ liệu VOD (video on demand). VOD hiện diện trong phòng hát chuyên nghiệp và dàn âm thanh gia đình. Giờ đây, bạn có thể tự do thể hiện bài hát bởi dữ liệu hình ảnh, âm thanh được tích hợp trong mỗi file dữ liệu.

2.Văn hóa karaoke:

Karaoke không chỉ dừng lại là loại hình giải trí mà đó là văn hóa âm nhạc phát triển khác nhau ở nhiều quốc gia. Như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, các nước Châu Âu…mỗi quốc gia lại có văn hóa ca hát khác nhau. Nếu đến Philipines, bạn sẽ thấy hầu như nhà nào cũng sở hữu dàn karaoke và karaoke box trên mọi nẻo đường. Tại Việt Nam, thì có khác so với thế giới, đa phần, âm thanh trong các phòng hát chuyên nghiệp đòi hỏi sản phẩm phải chịu được áp lực.

3.Karaoke hiện nay tại Việt Nam:

Việt Nam vào năm 2000, khi dàn karaoke gồm đầu phát, ampli, loa, các bài hát từ đĩa DVD, đầu phát điều khiển qua remote. Giờ đây, dàn âm thanh trang bị hiện đại, có thể dễ dàng sử dụng qua thiết bị thông minh. Âm thanh nâng cấp với cục đẩy công suất kết hợp mixer, loa thiết kế chuyên dụng cho công suất lớn. Bây giờ, karaoke không chỉ dừng lại ở phòng hát mà hiện gia đình nào cũng đều có dàn âm thanh tiêu chuẩn. Có thể nói karaoke đã trở thành một nhu cầu phổ biến đặc biệt là ở Việt Nam.

II.TÍNH KẾ THỪA, KINH TẾ VÀ TRIẾT LÝ:

Ban đầu karaoke chỉ là loại hình giải trí nhưng giờ là ngành công nghiệp trị giá hàng tỉ dollar. Sự phát triển kéo theo sự đi lên ngành sản xuất thiết bị âm thanh, ngành media tạo ra video chất lượng. Karaoke thúc đẩy phát triển thiết bị giải trí như loa, ampli, micro phone.. Khi nhu cầu  ca hát phổ biến, hệ thống âm thanh trở nên đa dạng với nhiều thiết bị. Tại Việt Nam, chúng ta bắt gặp thương hiệu âm thanh như JBL, TJ, đặc biệt là BMB Nhật Bản.

Giá trị lớn nhất cho sự phát triển là tính kế thừa, karaoke cũng vậy. Cảm hứng cho sự phát triển là trải nghiệm nhưng sự thừa kế giá trị là điều làm nên cốt cách sản phẩm. Vậy nên, sản phẩm phục vụ karaoke luôn có nét khác biệt, nên triết lý cuối cùng là tôn vinh giọng hát, yếu tố kế thừa làm nên triết lý phát triển BMB.

III.LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BMB:

Các nhà sáng lập của BMB International Corp đặt nền móng cho thương hiệu BMB vào năm 1962. Trước thời điểm Daisuke Inoue trình làng phát minh với tên “karaoke”. Thì lúc này, cửa hàng là “Nikko-do” ra đời với sản phẩm là máy phát nhạc, năm sau thì karaoke ra đời. Năm 1972, công ty “Nikko-do” thành lập và lên kế hoạch thương mại hóa cuộn băng karaoke đầu tiên. Sau đó, ngành giải trí karaoke bùng nổ mạnh mẽ và đăng ký thương hiệu BMB tại Nhật Bản năm 1988.

BMB trải qua quá trình hình thành và phát triển gần 60 năm trong ngành giải trí karaoke. BMB tự hào khi để lại người yêu thích karaoke sản phẩm tuyệt vời, đáp ứng nhu cầu ca hát, giải trí. Qua đó, là minh chứng thể hiện sự nghiêm túc và đam mê của những nhà thiết kế tạo nên.

1.Từ năm 1962 đến năm 2000:

  • 1962     Thành lập cửa hàng “Nikko – do” bán Máy Ghi – Máy Phát Nhạc.
  • 1972      Thành lập công ty TNHH Nikko – do.
  • 1975      Lên kế hoạch sử dụng băng Karaoke để thương mại và bắt đầu bán hàng.
  • 1978      Phát hành hàng loạt băng Karaoke 8 bài hát “ T8N Series ”.
  • 1984      Phát hành CD Karaoke “NCD Series”.
  • 1985      Phát hành LD Karaoke “NKD series”.
  • 1988      Đăng ký thương hiệu BMB tại Nhật Bản. Thành lập “Nikko-do U.S.A. Inc.” tại Hoa Kỳ.
  • 1989      Thành lập “Nikko-do Karaoke System (H.K.) Co., Ltd.” tại Hồng Kông.
  • 1990      Thành lập “BMB Korea Co., Ltd.” tại Hàn Quốc. Thành lập “Nikko-do (S) Pte Ltd” tại Singapore.
  • 1991      Mở Văn phòng đại điện tại Vương Quốc Anh.
  • 1991      Phát hành hệ thống CDI Karaoke.
  • 1992      Thành lập “Nikko-do (UK) Limited” tại Vương Quốc Anh.
  • 1994      Phát hành Hệ thống CD Motion Picture Karaoke.
  • 1995      Phát hành Hệ thống cáp Karaoke “ BeMAX’S.
  • 1997      Phát hành Hệ thống cáp Karaoke “ neon”.
  • 2000    Kết hợp với “U-SEN Broad Networks Corp.”

2.Từ năm 2001 đến năm 2017:

  • 2001      Đổi tên Công ty thành “U’s BMB Entertainment”.
  • 2003      Đóng cửa tất cả các Công ty con ở nước ngoài.
  • 2004      Phát hành Hệ thống cáp Karaoke “ neon R2”. Hệ thống cáp Karaoke “UGA”. Nhận Giải thưởng “Good Design 2004”.
  • 2005      Đổi tên Công ty thành “BMB Corp.” Thành lập “BMB International tại Thượng hải – Trung Quốc.
  • 2008      Phát hành Hệ thống cáp Karaoke “UGA NEXT” ( Đạt giải thưởng Good Design năm 2009 ).
  • 2010      Kết hợp với “XING Inc.” là công ty con “Brother Group” Thành lập “BMB International Corp.
  • 2011      Hợp tác với các Nhà phân phối nước ngoài ở 5 quốc gia: Trung Quốc, Hồng Kông; Hàn Quốc; Singapore, Việt Nam.
  • 2012      Hợp tác thêm 4 quốc gia: Malaysia, Đài Loan, Thái Lan, Hoa Kỳ.
  • 2013      Hợp tác với nước ngoài thêm 4 quốc gia: Campuchia, Mông Cổ, Myanmar, Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất.
  • 2014      Hợp tác với 2 quốc gia Philippines, New Zealand.
  • 2017      Đến hiện hợp tác với quốc gia Ấn Độ, cho ra đời sản phẩm BMB Home “CSH” and “DAH”.